Vị trí: Xã Dương Liễu, huyện Hoài Đức, Hà Nội.
Chùa hướng Tây - Tây Bắc, là hướng thông thường của nhiều chùa nhìn về đức Phật, ngay sát chân đê là tòa Tam quan kiêm gác chuông, hai tầng đều 4 mái tỏa ra xung quanh với 8 đầu đao phong phú vui mắt, dàn ra 3 gian như một tòa nhà chồng diêm. Tầng dưới Tam quan đã xây tường bít chỉ để gian giữa lắp cánh cửa phần trên là gác chuông, ở gian giữa treo quả chuông “Hương Trai tự chung” cao 123cm đúc năm Gia Long 13 tức 1814 vua Gia Long có lệnh cấm nhân dân miền Bắc không được đúc chuông và xây chùa. Gian bên phải treo chiếc khánh có tên ở hai mặt là “Hương Trai tự khánh - Quý Dậu niên trùng tu”.
Chùa Hương Trai đã quý hiếm về kiến trúc, còn tăng thêm giá trị ở hệ thống tượng và đồ thờ: trong Thượng điện ở gian giữa trên bệ đá là bộ Tam Thế, tiếp xuống A Di Đà, rồi Di Lặc với Bồ tát Văn Thù cưỡi sư tử ở bên phải và Bồ tát Phổ Hiền cưỡi Bạch tượng ở bên trái. Các gian bên trong phía bên trái có Quan Âm Thiên Thủ, bên trái có Quan Âm Thị Kính, còn hai góc bên ngoài có Thổ Địa và Giám Trai. Ở tòa Thiêu hương là tượng Ngọc Hoàng ở giữa, hai bên có hai tiên nữ đứng hàng trong và hai tiên nữ ngồi hàng ngoài, phía ngoài còn có bộ tượng Nam Tào và Bắc Đẩu. Tòa Tiền đường ngoài Hộ Pháp, Đức Ông và Thánh Hiền, còn có thêm hai bộ tượng Quan Âm tọa sơn mà dân gọi là bà Tây Năng dạy dân trồng dâu nuôi tằm.
Đặc biệt ở chùa Hương Trai có chiếc bệ đá hoa sen khối hộp thuộc loại di vật đặc trưng của nghệ thuật cuối thời Trần. Bệ có kích thước rất lớn: cao 160cm, mặt rộng 132cm và dài 366cm, hiện đặt ba pho Tam Thế còn rộng, phần trên là tòa sen cánh mập mạp trang trí một cánh sen cuộn với đầu hoa mặt nhẫn ở giữa, phần thân có chim thần (garuda) ở góc, mặt trước chạm 4 ô rồng uốn lượn. Bệ đá còn có nhiều hoa văn đặc thù của thời Trần, công năng là bàn Phật, ghi việc cúng ruộng tiền cho chùa năm Đại Trị 3 (1370) và niên đại tạo dựng bệ đá vào năm Đại Định 2 (1370).
Như vậy chùa Hương Trai là một công trình kiến trúc tôn giáo khá lớn, từ thời Trần đã nổi tiếng, ở thời Mạc mở rộng quy mô với một số tòa nhà và tượng nay vẫn còn, suốt các thế kỷ đó luôn được gia tăng và đều có dấu ấn, là bằng chứng của một làng quê văn hóa và văn hiến.